Tìm bài viết trong Giảng Đường Y Khoa
Đau ngực
Nếu bạn cảm thấy đau dữ dội, đau như bóp nghẹt, đè ép, nặng, nghẹt, đè nghẹn ở ngực kéo dài hơn vài phút, hoặc nếu cơn đau lan lên cổ, vai trái, hàm dưới, xuống cánh tay, bạn nên đến phòng cấp cứu ngay, không nên tự lái xe một mình, hãy để một người khác chở đi hoặc gọi xe cấp cứu.
Đau ngực là một trong những triệu chứng kinh khủng nhất mà con người đã từng trải qua. Đôi khi, rất khó để chẩn đoán nguyên nhân của đau ngực hoặc xác định xem nó có nguy hiểm đến tính mạng hay không. Những nguyên nhân gây đau ngực có thể ảnh hưởng đến tính mạng bao gồm: Những nguyên nhân gây đau ngực không ảnh hưởng đến tính mạng ngay tức thì
Những nguyên nhân gây nhồi máu
Những nguyên nhân gây nhồi máu bao gồm bệnh tim mạch và bệnh mạch vành. Những bệnh lý về tim mạch thường do ứ đọng cholesterol trong động mạch vành, do những cục máu đông hoặc do co thắt các động mạch cung cấp máu cho tim.
Các yếu tố nguy cơ dẫn đến nhồi máu cơ tim:
Những nguyên nhân gây đau thắt ngực Bóc tách động mạch chủ Tắc mạch phổi Những yếu tố nguy cơ gây tắc mạch phổi bao gồm: Tràn khí màng phổi nguyên phát Tràn khí màng phổi nguyên phát xuất hiện khi mất cân bằng áp lực trong khoang màng phổi và áp lực không khí bên ngoài. Thủng tạng rỗng Thủng tạng rỗng có thể do những tổn thương trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra. Trong trường hợp này, cơ hoành bị kích thích từ phía dưới lồng ngực. Cơ hoành giúp chúng ta hít thở. Nó nằm ở dưới các xương sườn và phân chia ranh giới giữa lồng ngực và ổ bụng. Bất kỳ sự kích thích nào lên cơ hoành, ngay cả khi kích thích từ phía dưới cũng có thể gây đau ngực. Những yếu tố nguy cơ không liên quan đến chấn thương: Viêm màng ngoài tim Nguyên nhân gây ra viêm ngoài tim có thể dvirus, vi trùng, ung thư, bệnh mô liên kết. thuốc, do một số loại thuốc, xạ trị, và suy thận mãn. Một biến chứng đe dọa đến tính mạng của viêm màng ngoài tim là tràn dịch màng ngoài tim. Viêm phổi Viêm phổi có thể do virus, vi trùng, nấm ở phổi. Những nguyên nhân liên quan đến thực quản Đau ngực xuất phát từ thực quản có thể là do:
-
Viêm thực quản có thể do nấm, ký sinh trùng, virus, vi trùng hoặc do kích thích của thuốc.
-
Co thắt thực quản có thể do cơ trơn thực quản co bóp một cách quá mức. Tình trạng này có thể là do buồn bã hoặc nuốt thức ăn hay thức uống quá nóng hoặc quá lạnh.
Triệu chứng của nhồi máu cơ tim Một cơn nhồi máu cơ tim điển hình xuất hiện ở khoảng từ giữa ngực đến bên hông trái và cũng có thể lan rộng ra đến vai trái, tay trái, hàm dưới, dạ dày và lưng. Triệu chứng của đau thắt ngực Đau thắt ngực tương tự như nhồi máu cơ tim nhưng xuất hiện khi gắng sức và giảm khi nghỉ ngơi hoặc khi uống thuốc nitroglycerin. Triệu chứng của bóc tách động mạch chủ Đau ngực liên quan đến bóc tách động mạch chủ xuất hiện đột ngột và được mô tả tính chất như là một cơn đau “xé”. Thuyên tắc đông mạch phổi Những triệu chứng của thuyên tắc động mạch phổi bao gồm: Những triệu chứng của tràn khí màng phổi bao gồm: Thủng tạng rỗng Triệu chứng của thủng tạng rỗng xuất hiện bất ngờ với các biểu hiện như đau bụng, ngực và/ hoặc lưng dữ dội. Đau bụng có thể tăng khi di chuyển hoặc hít thở và có thể kèm với dấu hiệu thành bụng cứng và chắc như gỗ. Viêm màng ngoài tim Cơn đau đặc trưng của viêm màng ngoài tim được miêu tả như sau: đau nhói hoặc đau như dao đâm ở giữa ngực và nặng thêm khi hít sâu. Sa van 2 lá Sa van 2 lá thường không có triệu chứng nhưng một số người cảm thấy đánh trống ngực (cảm giác tim đập mạnh hoặc nhanh) và đau ngực. Viêm phổi Đau ngực do viêm phổi xuất hiện khi bị ho kéo dài hoặc mạnh. Đau ngực thường ở 1 bên và nặng thêm khi ho. Những triệu chứng khác có liên quan bao gồm sốt, ho có đàm, và thở hụt hơi. Những triệu chứng liên quan đến thực quản Đối với những trường hợp đau ngực xuất phát từ thực quản, những triệu chứng phụ thuộc vào các nguyên nhân sau:
Nếu bạn có những triệu chứng của đau ngực đặc biệt là lần đầu tiên, bạn nên đi đến bệnh viện.
-
Bạn có thể gọi xe cấp cứu hoặc nhờ ai đó chở đến phòng cấp cứu gần nhất. Không nên tự lái xe một mình.
-
Vì nhiều nguyên nhân đau ngực thường tương tự như nhồi máu cơ tim hoặc những bệnh nguy hiểm đến tính mạng khác nên cần phải để các bác sĩ can thiệp nhanh nhất trong mức có thể.
Nếu bạn nghi ngờ mình bị nhồi máu cơ tim hoặc những cơn đau ngực nguy hiểm đến tính mạng, hãy gọi xe cấp cứu và đi đến bệnh viện ngay. Không cố gắng tự lái xe một mình.
-
Nếu bạn bị nhồi máu cơ tim, thời gian rất quan trọng. Thời gian bạn chờ đợi để được chẩn đoán và điều trị càng lâu thì càng có nhiều cơ tim bị tổn thương.
-
Nếu bạn bị đau ngực do một nguyên nhân nghiêm trọng đang diễn ra, các bác sĩ có thể sẽ can thiệp sớm bằng những biện pháp hiệu quả để làm giảm nguy cơ dẫn đến tử vong hoặc các hậu quả nặng nề. Những phương pháp điều trị này có thể có hiệu quả tốt trong chất lượng sống lâu dài của bạn.
Nếu không phải nhồi máu cơ tim hoặc những bệnh nguy hiểm đến tính mạng:
-
Bạn sẽ không thể khẳng định được chắc chắn cho đến khi các bác sĩ tìm ra được nguyên nhân đau ngực của bạn. Do đó, đừng nên tự lo lắng một cách quá mức.
-
Nếu triệu chứng đau ngực của bạn không nguy hiểm đến tính mạng, bạn không nên cảm thấy bối rối hoặc nghĩ rằng mình đang làm mất thời gian của mọi người. Dù kết quả có thế nào đi chăng nữa, bạn luôn luôn phải đi đến bệnh viện hoặc phòng cấp cứu gần nhất.
- Khi bị đau ngực, bất kể nó có phải là do những nguyên nhân có thể đe dọa tính mạng của bệnh nhân hay không thì cũng đều cần phải được các bác sĩ đánh giá một cách kỹ lưỡng. Hãy chắc chắn rằng mình đã có một quyết định đúng đắn và cảm thấy thoải mái khi đến phòng cấp cứu mỗi khi bạn bị đau ngực.
Nhồi máu cơ tim
Tại phòng cấp cứu, bác sĩ sẽ thực hiện 3 thủ thuật để chẩn đoán xác định xem bệnh nhân có bị nhồi máu cơ tim hay không:
-
Đầu tiên, thu nhập những triệu chứng của bệnh nhân.
-
Thứ hai, thực hiện ECG (điện tâm đồ), đây là một phương pháp để đo điện học các hoạt động của tim. ECG có thể cho ta biết được những mạch máu nào bị tắc hoặc bị hẹp.
- Thứ ba, đo các enzyme do cơ tim sản xuất khi chúng không nhận đủ oxy. Những enzyme này có thể được nhận biết bằng xét nghiệm máu và được gọi là men tim.
Đau thắt ngực
Các bác sĩ cũng sử dụng những phương pháp chẩn đoán nhồi máu cơ tim để chẩn đoán đau thắt ngực.
-
Trong đau thắt ngực, các xét nghiệm cho thấy không có sự tổn thương vĩnh viễn của cơ tim.
-
Chẩn đoán chỉ được xác định sau khi đã có đủ bằng chứng để loại trừ nhồi máu cơ tim, thường là kết quả âm tính ở cả 3 lần thực hiện xét nghiệm men tim.
-
Mặc dù ECG có thể cho thấy có bất thường, những thay đổi này có thể trở về bình thường.
-
Một phương pháp khác để chẩn đoán đau thắt ngực là stress test: những xét nghiệm này sẽ ghi nhận ECG trong khi tập luyện hoặc những gắng sức khác nhằm khẳng định có những chỗ hẹp trong mạch máu của tim.
- Thông tim được sử dụng để xác định chỗ hẹp. Đây là phương pháp chụp X – quang chuyên biệt. Phương pháp này sử dụng một loại thuốc nhuộm vô hại để làm nổi bật những chỗ hẹp hoặc những bất thường khác của mạch máu.
Bóc tách động mạch chủ
Chẩn đoán bóc tách động mạch chủ dựa trên những triệu chứng mà bệnh nhân mô tả, X – quang ngực, và các chẩn đoán hình ảnh chuyện biệt khác.
-
Trên X – quang ngực, động mạch chủ sẽ có những đường viền bất thường hoặc xuất hiện những chỗ phình ra.
-
Siêu âm tim qua ngã thực quản là phương pháp siêu âm đặc biệt. Ở phương pháp này, người ta đưa đầu dò siêu âm vào bên trong thực quản để quan sát tim. Kỹ thuật này được thực hiện sau khi cho thuốc giảm đau hoặc gây mê.
- Bóc tách động mạch chủ có thể được xác định chắc chắn nhờ vào CT scan ngực hoặc chụp mạch máu.
Thuyên tắc mạch máu phổi
Chẩn đoán thuyên tắc mạch máu phổi có thể được xác định dựa trên nhiều dữ kiện khác nhau:
-
Sự miêu tả các triệu chứng của bệnh nhân, kết quả trên ECG và X – quang ngực có thể góp phần chẩn đoán nhưng không phải là yếu tố quyết định
-
Những bệnh nhân được chẩn đoán xác định nếu có những triệu chứng do cục máu đông ở chân.
-
Bác sĩ sẽ lấy máu động mạch để đo nồng độ oxy và các chất khí có trong máu bệnh nhân (khí máu động mạch). Những bất thay đổi thường về nồng độ các chất khí trong máu cho biết phổi gặp vấn đề trong việc cung cấp đủ lượng oxy cho cơ thể.
-
V/Q scan (ventilation-perfusion scan) được dùng để so sánh lượng máu chảy qua với lượng oxy nhận vào ở những phần khác nhau của phổi. Nếu có bất thường chỉ ở một phần nào đó của phổi cũng có thể chẩn đoán là tắc mạch phổi.
- Có thể chụp CTScan ở phổi thay vì V/Q scan để chẩn đoán xác định bệnh nhân có tắc mạch phổi hay không.
Tràn khí màng phổi nguyên phát
Chẩn đoán tràn khí màng phổi nguyên phát dựa trên khám lâm sàng và X – quang ngực. CTScan có thể có ích trong việc xác định những vùng tràn khí nhỏ.
Thủng tạng rỗng
Thường được xác định bằng X – quang ngực với tư thế đứng hoặc X – quang bụng với tư thế nằm nghiêng sang trái.
-
Chụp X – quang ở những tư thế này có làm cho khí đi về phía cơ hoành, giúp phát hiện ra dễ dàng.
- Những triệu chứng, kết quả khám lâm sàng và những xét nghiệm khác cũng hổ trợ chẩn đoán.
Viêm màng ngoài tim
Viêm màng ngoài tim cấp được chẩn đoán dựa trên những triệu chứng của bệnh nhân, ECG chuỗi, và siêu âm tim. Một số xét nghiệm khác cũng có ích trong việc xác định nguyên nhân.
Viêm phổi
Viêm phổi được chẩn đoán dựa vào những triệu chứng của bệnh nhân, bệnh sử, khám lâm sàng và X – quang ngực.
Những bệnh liên quan đến thực quản
Những bệnh liên quan đến thực quản gây đau ngực đuợc chẩn đoán dựa trên nguyên tắc loại trừ. Chẩn đoán sẽ được xác định dựa trên những triệu chứng của bệnh nhân, bệnh sử và sau khi đã loại trừ các nguyên nhân từ tim và theo dõi xem bệnh nhân có giảm đau khi sử dụng thuốc kháng acid hay không.
Chăm sóc tại nhà
Nhồi máu cơ tim
Nếu bạn nghĩ bạn hay ai đó có thể bị nhồi máu cơ tim, hãy gọi xe cấp cứu ngay hoặc đến bệnh viện gần nhất.
-
Trong khi chờ xe cấp cứu, cho bệnh nhân nhai 2 viên aspirin của trẻ em hoặc tổi thiểu ½ viên aspirin thông thường – tổi thiểu 160mg. Không có bằng chứng cho thấy dùng nhiều aspirin hơn sẽ có hiệu quả hơn mà ngược lại còn có thể gây ra những tác dụng phụ đối với bệnh nhân.
-
Điều quan trọng là nhai aspirin trước khi nuốt vì sẽ giảm thời gian thuốc chuyển hóa trong cơ thể đến khi có tác dụng.
- Nhai aspirin trong giai đoạn sớm của nhồi máu cơ tim có thể làm giảm nguy cơ tử vong và giảm độ nặng của cơn nhồi máu.
Đau thắt ngực
Nếu bệnh nhân bị đau thắt ngực và có sẵn nitroglycerin, hãy ngậm 1 viên dưới lưỡi. Thuốc có thể giúp tăng lượng máu tới những động mạch bị tắc hoặc hẹp.
-
Nếu đau ngực vẫn còn sau 5 phút, ngậm tiếp 1 viên khác dưới lưỡi.
- Sau khi sử dụng 3 viên nitroglycerin mà bệnh nhân vẫn không giảm đau, ngay lập tức gọi xe cấp cứu hoặc đưa bệnh nhân đến bệnh viện gần nhất.
Can thiệp y học
Nhồi máu cơ tim
Điều trị nhồi máu cơ tim nhằm mục tiêu tăng lưu lượng máu bằng cách thông những động mạch bị tắc nghẽn hoặc hẹp do máu đông.
-
Những thuốc được sử dụng cho mục đích trên bao gồm aspirin, heparin và những thuốc làm tan máu.
-
Những thuốc khác có thể được sử dụng để làm chậm nhịp tim do đó sẽ làm giảm khối lượng làm việc của tim và giảm đau.
-
Nong mạch vành là phương pháp làm thông động mạch. Đầu tiên, bệnh nhân sẽ được chụp mạch máu để xác định vị trí bị tắc hoặc bị hẹp. Một ống nhựa dẻo có đường kính nhỏ được gọi là catheter được luồn vào trong mạch vành, sau đó một quả bong bóng nhỏ ở cuối ống được bơm phồng lên. Nó sẽ làm cho mạch vành mở rộng ra , tạo một lối đi rộng hơn cho dòng máu. Sau đó bóng được xả và lấy ra ngoài. Đôi khi, người ta dùng một khung đỡ nhỏ bằng kim loại (stent) được đặt vào trong mạch vành để giữ cho những mạch máu được mở rộng.
- Cần phải phẫu thuật nếu điều trị bằng thuốc thất bại, bao gồm nong mạch vành hoặc thay tim.
Đau thắt ngực
Mục tiêu điều trị đau thắt ngực là làm giảm đau ngực do lượng máu đến tim giảm.
-
Nitroglycerin được sử dụng rộng rãi nhất có tác dụng làm giãn mạch vành, thường được ngậm dưới lưỡi.
-
Đau thắt ngực được điều trị với 3 liều nitroglycerin cách nhau 5 phút.
-
Nếu vẫn còn đau, dùng nitroglycerin tiêm tĩnh mạch và cho bệnh nhân nhập viện để được theo dõi nhằm loại trừ nhồi máu cơ tim.
- Sau khi điều trị giai đoạn đầu của đau thắt ngực, điều trị lâu dài tập trung vào mục tiêu làm giảm nguy cơ xơ vữa động mạch và các bệnh tim mạch.
Bóc tách động mạch chủ
Mục tiêu điều trị bóc tách động mạch chủ là làm giảm huyết áp.
-
Những thuốc làm giảm nhịp tim và giãn mạch được sử dụng rộng rãi nhất.
-
Theo dõi huyết áp thường xuyên tránh để huyết áp thấp quá, như vậy sẽ rất nguy hiểm.
- Cần phải phẫu thuật nếu bị bóc tách phần lên của động mạch chủ.
Thuyên tắc động mạch phổi
Những người nghi ngờ hoặc được ghi nhận là thuyên tắc động mạch phổi được đề nghị nhập viện.
-
Điều trị bao gồm tăng cung cấp oxy, cho thuốc kháng đông như heparin.
-
Nếu chỗ thuyên tắc quá lớn, thuốc làm tan máu đông được sử dụng trong một số trường hợp.
- Một số người phải trải qua phẫu thuật để đặt một tấm lọc có dạng giống như cái dù vào mạch máu để ngăn không cho cục máu đông đi từ chi dưới lên phổi.
Tràn khí màng phổi được xem là không có triệu chứng là khi bệnh nhân được theo dõi ở bệnh viện trong vòng 6 giờ và chụp X – quang ngực nhiều lần.
-
Nếu kích thước của vùng tràn khí không thay đổi, bệnh nhân sẽ được xuất viện trong vòng 24 giờ.
- Nếu xuất hiện triệu chứng hoặc vùng tràn khí lớn hơn, bệnh nhân sẽ được nhập viện để phẫu thuật đặt catheter nhằm dẫn lưu chất khí hoặc hoặc đặt một ống luồn vào lồng ngực để phục hồi áp suất âm trong lồng ngực.
Thủng tạng rỗng
Thủng ruột rất nguy hiểm đến tính mạng và cần phải được phẫu thuật ngay lập tức.
Viêm màng ngoài tim
Viêm màng ngoài tim do virus được điều trị từ 7 – 12 ngày với thuốc kháng viêm nonsteroid như aspirin và ibuprofen.
Viêm phổi
Viêm phổi được điều trị với kháng sinh và thuốc giảm đau khi bệnh nhân bị nhạy cảm ở thành ngực.
Viêm sụn sườn
Thường được điều trị với kháng viêm nonsteroid như inbuprofen.
Những bệnh của thực quản
Có 3 bệnh chính của thực quản gây ra đau ngực: 1) trào ngược dạ dày thực quản (GERD), 2) viêm thực quản, 3)co thắt thực quản, đều được điều trị với thuốc kháng acid, kháng sinh, kháng virus hoặc kháng nấm, thuốc giãn cơ thực quản hoặc kết hợp những thuốc trên.
Theo dõi
Bất kể nguyên nhân đau ngực là gì bạn nên đi tái khám thường xuyên. Việc này sẽ giúp sức khỏe của bạn hồi phục và tránh tình trạng xấu đi.
Phòng ngừa
Nhồi máu cơ tim
Cách phòng ngừa nhồi máu cơ tim và đau thắt ngực là có một lối sống tốt để có một trái tim khỏe mạnh. Giảm những yếu tố nguy cơ cho thấy rất có hiệu quả.
-
Không hút thuốc
-
Giữ cân nặng lý tưởng.
-
Ăn những thức ăn dinh dưỡng, ít béo với lượng vừa phải.
-
Nếu bạn uống những chất có cồn, chỉ sử dụng với lượng vừa phải (tốt nhất rượu 1 ly nhỏ/ngày, bia 1 lon/ngày, rượu vang 150ml).
-
Tập thể dục ít nhất 30 phút mỗi ngày.
-
Kiểm soát huyết áp và lượng cholesterol trong máu.
- Nếu bạn bị tiểu đường, cần kiểm soát lượng đường trong máu hằng ngày.
Bóc tách động mạch chủ
Có thể phòng ngừa bóc tách động mạch chủ bằng cách kiểm soát huyết áp và theo dõi thường xuyên hơn nếu bệnh nhân có tiền căn gia đình về bệnh này.
Thuyên tắc động mạch phổi
Cách phòng ngừa thuyên tắc động mạch phổi là có một lối sống tốt để có 1 trái tim khỏe mạnh
-
Không nên hút thuốc, đối tượng đặc biệt có nguy cơ cao đối với thuốc lá là phụ nữ trên 35 tuổi và có sử dụng thuốc ngừa thai.
-
Khi phải ngồi trong một thời gian dài (như đi ôtô, xe lửa, máy bay…) hoặc bất động chân lâu, bạn nên duỗi thẳng chân ra, đứng dậy và đi lại. Xoa bóp bắp chân cũng rất có ích nếu bạn không thể đi lại.
-
Nếu chân bị sưng, đặc biệt mất cân xứng giữa 2 chân, bạn nên đi khám bác sĩ.
- Bạn nên uống thuốc kháng đông phòng ngừa sau phẫu thuật đặc biệt là phẫu thuật chỉnh hình.
Tràn khí màng phổi nguyên phát
Ngừng hút thuốc có thể làm giảm nguy cơ tràn khí màng phổi nguyên phát.
Thủng tạng rỗng
Điều trị loét dạ dày tá tràng và tránh nuốt những vật lạ có thể giảm nguy cơ thủng tạng rỗng.
Viêm màng ngoài tim
Vì nhiều trường hợp viêm màng ngoài tim có nguyên nhân là virus nên việc rửa tay sạch sẽ có thể làm giảm nguy cơ lây truyền virus.
Viêm phổi
Rửa tay sạch sẽ và giữ vệ sinh tốt sẽ làm giảm sự lây truyền virus và vi trùng có thể gây viêm phổi.
Sa van 2 lá
Không có biện pháp phòng ngừa
Những bệnh liên quan đến thực quản
Trào ngược dạ dày thực quản (GERD) ở một số trường hợp:
-
Tránh thức ăn và những chất gây ra hoặc làm nặng thêm các triệu chứng, đặc biệt là những thức ăn có nhiều dầu mỡ.
-
Ngưng hút thuốc.
-
Hạn chế sử dụng thức uống có cồn.
-
Tránh ăn quá nhiều.
-
Tránh ăn trước khi ngủ ít hơn 3 tiếng.
-
Tránh nằm nghiêng sang phải sau khi ăn.
- Nằm đầu cao.
Tiên lượng
Can thiệp y học sớm có thể cải thiện được khả năng sống còn đối với những bệnh có nguy cơ ảnh hưởng đến tính mạng có triệu chứng đau ngực.
Nhồi máu cơ tim và đau thắt ngực không ổn định: những bệnh tim bao gồm nhồi máu cơ tim và đau thắt ngực là nguyên nhân gây tử vong cao nhất ở người trưởng thành tại Mỹ. Theo báo cáo của Hiệp Hội Tim Mạch Mỹ, gần 900,000 ngừời chết mỗi năm do bệnh mạch vành. Khả năng sống sau nhồi máu cơ tim phụ thuộc vào thời gian bệnh nhân nhận được sự điều trị, vùng bị tổn thương và mức độ lan rộng của tổn thương cùng với những yếu tố nguy cơ khác.
Bóc tách động mạch chủ: Đây là một tình trạng gây nguy hiểm đến tính mạng rất cần phải điều trị. Nếu không được điều trị, 33% bệnh nhân chết trong 24 giờ đầu và 50% bệnh nhân chết trong vòng 48 giờ. Tỷ lệ tử vong trong vòng 2 tuần lên đến khoảng 75% ở những bệnh nhân bị bóc tác phần lên của động mạch chủ không được chẩn đoán. Một nghiên cứu của đại học Michigan cho thấy 90% bệnh nhân ở tình trạng nặng nhất còn sống sau khi được đưa đến phòng cấp cứu và được nhập viện có thể sống tiếp 3 năm sau đó.
Thuyên tắc mạch máu phổi: Ngay cả khi được điều trị sớm, 1/10 bệnh nhân thuyên tắc mạch máu phổi vẫn tử vong trong vòng 1 giờ đầu. Thống kê của Hiệp Hội Tim Mạch Mỹ cho thấy có 600,000 người Mỹ bị thuyên tắc mạch máu phổi và khoảng 60,000 người chết vì nó. Bệnh có thể được điều trị nếu diễn tiến không nhanh và phát hiện sớm. Bệnh nhân thường được điều trị bằng cách làm loãng máu.
Tràn khí màng phổi: Hầu hết bệnh nhân bị bệnh này đều có thể hồi phục hoàn toàn sau một thời gian điều trị nếu không có những tổn thương ảnh hưởng đến tính mạng khác (như trong tai nạn giao thông). Nó xảy ra ở hấu hết những người trẻ, ốm, cao, không có bệnh phổi. Những bệnh nhân bị tràn khí màng phổi nguyên phát, có nguy cơ tái phát khoảng 50%. Những bệnh khác gây tràn khí màng phổi và có những biến chứng do đặt dẫn lưu có thể làm bệnh nặng và kéo dài hơn.
Thủng tạng rỗng: Nếu được phát hiện và can thiệp sớm, tiên lượng bệnh sẽ tốt ở những người khỏe mạnh. Nếu tình trạng sức khỏe xấu, tiên lượng bệnh cũng sẽ xấu đi.
Viêm màng ngoài tim cấp: mặc dù diễn tiến bệnh khác nhau ở mỗi người, tuy nhiên tiên lượng bệnh vẫn tốt nếu bệnh được điều trị ngay lập tức. Hầu hết các trường hợp sẽ khỏi bệnh trong vòng 2 tuần đến 3 tháng.
Viêm phổi: ở người trưởng thành trẻ tuổi khỏe mạnh, tiên lượng viêm phổi tốt nếu được điều trị đúng. Tiên lượng xấu hơn đối với những bệnh nhân lớn tuổi, và ở những người có tình trạng suy giảm miễn dịch như HIV/AIDS.
Đau ngực do những bệnh thực quản: Trào ngược dạ dày thực quản (GERD) ảnh hưởng đến ¼ những người trưởng thành và có tỉ lệ tử vong rất thấp. Viêm thực quản có thể dẫn đến loét, tạo sẹo, hoặc hẹp thực quản. Ngoại trừ thủng thực quản có tỉ lệ tử vong rất cao, tất cả những bệnh trên đều có tiên lượng tốt kể cả co thắt thực quản.
Theo emedicinehealth - Y học NET dịch
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Cám ơn bạn đã đọc bài viết. Bạn có ý kiến, tư liệu hoặc thông tin hay hơn hãy để lại vài lời để cùng chia sẻ với mọi người.
Xin lưu ý bạn, các nhận xét không có tinh thần góp ý xây dựng hay giúp đỡ nhau cùng tiến bộ sẽ bị xóa mà không cần báo trước.
Thêm vào đó, bạn không nhất thiết phải là thành viên của Google Blogger hay các mạng được liệt kê phía dưới mới được nhận xét, hãy sử dụng anonymous (Ẩn danh) nếu bạn không muốn để lại thông tin cá nhân của mình.
Nội dung gõ bằng tiếng Việt có dấu rõ ràng sẽ dễ chiếm thiện cảm hơn cả.
giangduongykhoa.net