Tìm bài viết trong Giảng Đường Y Khoa

Kiểm soát hội chứng ruột kích thích (IBS)

IBS được mô tả bởi sự khó chịu ở vùng bụng kết hợp với thay đổi chức năng ruột; không có sự bất thường cấu trúc và chức năng sinh hóa. Sinh lý bệnh học của IBS do nhiều nguyên nhân và hiện được quan tâm nhiều và rộng rãi bởi vì khả năng phát triển các biện pháp điều trị mục tiêu.

Vì IBS là một trong các rối loạn phổ biến nhất và được quan tâm bởi các nhà tiêu hóa học và các bác sĩ chăm sóc sức khỏe ban đầu, chuyên khảo này được thực hiện mục đích để giảng dạy các bác sĩ về dịch tễ học của bệnh, phương pháp chẩn đoán và điều trị.

IBS như là một bệnh thường gặp có kèm đau bụng và thay đổi thói quen của ruột trong vòng 3 tháng hoặc hơn. Dựa vào các kết luận có hệ thống để đánh giá các triệu chứng theo các xét nghiệm khác nhau và hiệu quả của phương pháp điều trị IBS, các chuyên gia đã đưa ra các khuyến cáo sau:

. Ở những bệnh nhân trẻ không có biểu hiện nặng, IBS có thể được phân tích trên lâm sàng, và xét nghiệm được làm thêm trong phòng thí nghiêm không cần thiết. Tuy nhiên kiểm tra huyết thanh để biết các bất thường ruột có thể giúp ích cho một số bệnh nhân, đặc biệt những người bị IBS triệu chứng chính là tiêu chảy và IBS thể táo bón, tiêu chảy xen kẽ.

. Bệnh nhân lớn hơn 50 tuổi hoặc có các triệu chứng nặng, cần làm thêm xét nghiệm như soi ruột kết.

. Mặc dù chứng cứ y học không nhiều, các thử nghiệm cho tới nay khuyên rằng hạt cây Mã đề, thuốc chống co thắt và dầu bạc hà hiệu quả cho bệnh nhân IBS. Hạt Mã đề có thể làm giảm triệu chứng chung của IBS ngược lại dầu bạc hà có thể làm giảm đau bụng trong một thời gian.

. Mặc dù chứng cứ thích hợp từ thử nghiệm cho tới bây giờ nói rằng probiotic có thể làm giảm triệu chứng chung của IBS nhưng chúng không nhiều.

. Thuốc trị tiêu chảy như loperamid có thể làm giảm số lần đi cầu nhưng không tác động lên cơn đau hoặc các triệu chứng chung của IBS.

. Đối với bệnh nhân tiêu chảy, chất đối kháng 5-hydroxytriptamine 3 như alosetron có hiệu quả, điều này dựa trên chứng cứ đảm bảo tin cậy. Tuy nhiên bởi vì nguy cơ viêm ruột kết do chứng thiếu máu cục bộ, các bệnh nhân nên lựa chọn cẩn thận. Đối với các bệnh nhân IBS triệu chứng chính là tiêu chảy, alosetron hiệu quả hơn hẳn so với giả dược khi làm giảm các triệu chứng của IBS, nhưng thuốc gây ra nguy cơ viêm ruột kết do thiếu máu cục bộ ở mức độ xấp xỉ 1 ca trong 1000 ca mắc bệnh và có dùng thuốc mỗi năm.

. Đối với bệnh nhân bị táo bón, chất chủ vận 5-hydroxytriptamine 4 như tegaserod cho hiệu quả mức trung bình, dựa trên chứng cứ có chất lượng. tuy nhiên khả năng gây bệnh trên tim mạch giới hạn tác dụng của thuốc. Phụ nữ bị IBS triệu chứng chính là táo bón và bệnh nhân IBS tiêu chảy, táo bón xen kẽ, tegaserod làm giảm một cách hiệu quả các triệu chứng chung của IBS nhưng nó gây ra tiêu chảy ở 1 % - 2 % bệnh nhân và gây biến chứng tim mạch nghiêm trọng ở 0,11 % bệnh nhân.

. Bệnh nhân có các thể phụ của IBS, thuốc chống trầm cảm 3 vòng và chất ức chế thu hồi chọn lọc serotonin được chứng minh có hiệu quả trong việc làm giảm nhẹ đau bụng và các triệu chứng chung. Chất lượng của các chứng cứ hỗ trợ cho ích lợi của các thuốc trên được xếp ở mức trung bình bởi vì nói chung là các thử nghiệm đạt chất lượng tốt nhưng con số người bệnh cứ kéo dài đã thay đổi độ tin cậy trong việc suy đoán hiệu quả thuốc. Dữ liệu về tính an toàn và độ dung nạp của thuốc trên những bệnh nhân IBS bị giới hạn.

. Đặc biệt đối với các bệnh nhân IBS triệu chứng chính là tiêu chảy, kháng sinh không hấp thu được qua ruột có hiệu quả. Chứng cứ ở mức độ trung bình.

Trong bệnh IBS thể tiêu chảy, táo bón xen kẽ, chất hoạt hóa chọn lọc kênh C-2 chloride như lubiproston có hiệu quả. Chứng cứ mức độ trung bình. Đặc biệt thuốc có hiệu quả hơn hẳn giả dược khi dùng cho phụ nữ IBS thể trên.

. Liệu pháp tâm lý có thể có lợi cho bệnh nhân IBS. Tuy nhiên, chứng cứ không nhiều. Triệu chứng chung của IBS có thể giảm với liệu pháp thay đổi nhận thức, liệu pháp tâm lý chức năng và thôi miên nhưng liệu pháp thư giãn không chứng tỏ có hiệu quả.

Việc mở rộng hiểu biết của chúng ta về sinh bệnh học của IBS dẫn đến khả năng nhận biết được nhiều loại tác nhân chữa bệnh mới. Nói chung, có những tác nhân trong bệnh IBS gây ra tác động trên ngoại vi và một vài thuốc tác động lên cả ngoại vi và trung ương.

YBACSI.com

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Cám ơn bạn đã đọc bài viết. Bạn có ý kiến, tư liệu hoặc thông tin hay hơn hãy để lại vài lời để cùng chia sẻ với mọi người.

Xin lưu ý bạn, các nhận xét không có tinh thần góp ý xây dựng hay giúp đỡ nhau cùng tiến bộ sẽ bị xóa mà không cần báo trước.

Thêm vào đó, bạn không nhất thiết phải là thành viên của Google Blogger hay các mạng được liệt kê phía dưới mới được nhận xét, hãy sử dụng anonymous (Ẩn danh) nếu bạn không muốn để lại thông tin cá nhân của mình.

Nội dung gõ bằng tiếng Việt có dấu rõ ràng sẽ dễ chiếm thiện cảm hơn cả.
giangduongykhoa.net

Thống kê truy cập

Locations of visitors to this page

MedicineNet Daily News

Medscape Medical News Headlines

WebMD Health

National Institutes of Health (NIH) News Releases