Tìm bài viết trong Giảng Đường Y Khoa

Sản giật

Sản giật là một biến chứng có thể đe dọa mạng sống khi mang thai, xảy ra khi một thai phụ đã được chẩn đoán là tiền sản giật trước đó (tăng huyết áp và có protein trong nước tiểu) bị co giật hoặc hôn mê.

Trong một số trường hợp, co giật hoặc hôn mê là dấu hiệu đầu tiên nhận biết một phụ nữ đang mang thai bị tiền sản giật. Những dấu hiệu quan trọng báo động sự xuất hiện của cơn sản giật ở những phụ nữ đã được chẩn đoán là tiền sản giật có thể là nhức đầu dữ dội, nhìn mờ, nhìn đôi, hoa mắt. Nhiễm độc thai là từ thường dùng để miêu tả sản giật và tiền sản giật.

Không có bằng chứng cho thấy bệnh diễn tiến theo một trật tự từ lúc khởi phát bệnh là tiền sản giật nhẹ sang tiền sản giật nặng và cuối cùng là sản giật. Tiến triển của bệnh có thể bắt đầu từ nhẹ và vẫn giữ nguyên mức độ đó, hoặc cũng có thể được chẩn đoán là sản giật ngay từ đầu mà không có giai đoạn báo động.

  • Gần 5 – 7% sản phụ bị tiền sản giật.

  • Tiền sản giật thường xuất hiện ở phụ nữ lần mang thai đầu tiên nhưng có thể xuất hiện lần đầu tiên ở những lần mang thai kế tiếp.

  • Dưới 1% phụ nữ bị tiền sản giật phát triển thành sản giật hoặc co giật hoặc hôn mê.

  • Trên 20% thai phụ có tăng huyết áp. Trong các nguyên nhân gây tử vong cho sản phụ, những biến chứng do tăng huyết áp, tiền sản giật và sản giật chiếm khoảng 20%.

NGUYÊN NHÂN

  • Người ta chưa xác định được nguyên nhân chính xác của tiền sản giật và sản giật.

  • Khi không biết nguyên nhân gây ra sản giật và tiền sản giật, chúng ta cũng không có những xét nghiệm hiệu quả để dự báo sự xuất hiện của sản giật và tiền sản giật, hoặc điều trị để phòng ngừa sự xuất hiện hoặc tái phát của tiền sản giật và sản giật.

  • Tiền sản giật thường xuất hiện ở phụ nữ mang thai lần đầu. Tuy nhiên, tiền sản giật có thể gặp ở phụ nữ song thai (hoặc đa thai), trên 35 tuổi, có tăng huyết áp trước khi mang thai, đái tháo đường và những phụ nữ có những bệnh lý khác (như bệnh lý của thận và bệnh mô liên kết).

  • Người ta vẫn chưa lý giải được vì sao những phụ nữ Mỹ gốc Phi dễ bị sản giật và tiền sản giật hơn phụ nữ da trắng.

  • Tiền sản giật có tính chất di truyền và nguyên nhân vẫn chưa được biết đến.

  • Tiền sản giật cũng có liên quan đến những bất thường của nhau thai, như nhau quá lớn, nhau quá bé hoặc những cách nhau gắn vào thành tử cung. Tiền sản giật cũng liên quan đến thai trứng, khi mà nhau và thai nhi đều bất thường.

  • Không thể phòng ngừa tiền sản giật hoặc sản giật. Do đó, sẽ chẳng có ích lợi gì và cũng không tốt cho sức khỏe nếu như ta cố gắng quy trách nhiệm hoặc xem xét lại những sự kiện xảy ra ở những tháng cuối thai kỳ hay ở những tháng đầu tiên lúc mới mang thai và cho rằng chúng là nguyên nhân hoặc góp phần gây ra tiền sản giật.

TRIỆU CHỨNG

Tiêu chuẩn vàng của sản giật là co giật. Cũng giống như tiền sản giật, những biến đổi và những triệu chứng khác cũng có thể xuất hiện và thay đổi tùy thuộc vào những hệ cơ quan hay những hệ mà sản giật tác động. Những thay đổi này có thể chỉ ảnh hưởng đến mẹ, đến con hoặc thường thấy hơn là tác động lên cả mẹ và con. Một số trong những triệu chứng này có thể trở thành những dấu hiệu báo động cho thai phụ, nhưng hầu hết chúng là không có.

  • Triệu chứng thường gặp nhất và là tiêu chuẩn vàng của tiền sản giật là tăng huyết áp. Đây có thể là triệu chứng duy nhất hoặc đầu tiên. Ban đầu, huyết áp có thể tăng rất ít hoặc rất cao, có thể có hoặc không xuất hiện triệu chứng. Tuy nhiên, trị số tăng huyết áp thay đổi đối với từng phụ nữ và cũng thay đổi trong quá trình tiến triển và điều trị của bệnh. Một số phụ nữ chưa bào giờ bị tăng huyết áp một cách có ý nghĩa (gồm khoảng 20% trong những phụ nữ bị sản giật).

  • Người ta thường tin rằng nguy cơ bị sản giật sẽ tăng lên nếu trị số huyết áp tăng trên 160/110 mm Hg.

  • Thận không thể lọc máu hiệu quả như bình thường. Điều này có thể dẫn đến hiện tượng tăng lượng protein xuất hiện trong nước tiểu. Dấu hiệu tăng protein niệu thường được phát hiện đầu tiên khi thử nước tiểu ở phòng mạch tư. Rất hiếm thấy một phụ nữ chú ý đến những thay đổi hoặc những triệu chứng liên quan đến tăng protein trong nước tiểu. Trong những trường hợp thận bị ảnh hưởng nặng nề, lượng nước tiểu sẽ giảm đáng kể.

  • Những thay đổi của hệ thống thần kinh bao gồm nhìn mờ, hoa mắt, nhức đầu dữ dội, co giật và đôi khi có thể dẫn đến mù. Nếu gặp bất kỳ triệu chứng nào kể trên, bạn cần phải đi khám ngay lập tức.

  • Những thay đổi ở đến gan có thể gây ra đau vùng bụng phía trên và có thể gây nhầm lẫn với rối loạn tiêu hóa hoặc những bệnh lý liên quan đến túi mật. Những thay đổi khác ở gan khó nhận biết hơn chẳng hạn như những thay đổi liên quan đến khả năng đông máu của tiểu cầu có thể phát hiện ra nhờ những mảnh bầm máu nhiều và lớn.

  • Những thay đổi ảnh hưởng đến thai nhi có thể làm ảnh hưởng đến lượng máu qua nhau làm cho thai nhi không được cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng. Do đó, thai khi không phát triển được bình thường, có thể nhỏ hơn so với bình thường hoặc trong tình huống xấu hơn là thai kém phát triển hoặc cử động thai giảm về tần số và cường độ. Bạn nên đi khám ngay nếu bạn thấy cử động thai trở nên chậm dần.

KHI NÀO CẦN ĐI KHÁM

  • Nếu bạn muốn hỏi những vấn đề liên quan đến sức khỏe của bạn và sức khỏe thai nhi.

  • Nếu bạn đau đầu dữ dội hoặc dai dẳng hoặc rối loạn thị giác chẳng hạn như nhìn đôi, hoa mắt (đây là những dấu hiệu báo động tiền sản giật có thể tiến triển thành sản giật).

  • Nếu chỉ số huyết áp của bạn bằng hoặc cao hơn 160/110 mm Hg, hãy đến bệnh viện ngay.

  • Nếu bạn đau dữ dội ở giữa bụng hoặc ở bên phải bụng dưới xương sườn (đây là những dấu hiệu báo động tiền sản giật diễn tiến xấu hơn).

  • Nếu bạn thấy mình bị chảy máu hoặc có những vết bầm bất thường.

  • Nếu bạn nhận thấy mình bị phù nhiều hoặc tăng cân nhiều.

  • Nếu cử động thai chậm dần.

  • Nếu bạn bị ra máu âm đạo hoặc bị vọp bẻ.

LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG

Nếu bạn có những triệu chứng trên hãy đi khám bác sĩ hoặc đến bệnh viện ngay. Nếu bạn có máy đo huyết áp tại nhà, hãy nói cho bác sĩ biết chỉ số huyết áp của mình. Tuy nhiên, dù có theo dõi huyết áp tại nhà nhưng bạn vẫn phải cần đến phòng mạch bác sĩ.

  • Hãy kể lại một cách chắc chắn những dấu hiệu, triệu chứng và những mối lo lắng của bạn với bác sĩ. Bác sĩ sẽ đo lại huyết áp, cân nặng và nước tiểu của bạn ở mỗi lần khám.

  • Nếu bác sĩ nghi ngờ bạn bị tiền sản giật, bạn sẽ được làm những xét nghiệm như công thức máu để đánh giá số lượng tiểu cầu, chức năng gan, chức năng thận. Bác sĩ cũng sẽ kiểm tra lại lượng protein trong mẫu nước tiểu lấy tại phòng khám hoặc nước tiểu lấy trong 24 giờ khi ở bệnh viện. Những xét nghiệm này có thể có kết quả trong vòng 24 giờ (nếu gửi mẫu đến nơi khác xét nghiệm) hoặc trong vài giờ nếu được xét nghiệm tại bệnh viện.

  • Nên kiểm tra tình trạng sức khỏe của thai nhi bằng máy monitor. Những kiểm tra kế tiếp bao gồm nonstress test, kết quả siêu âm thai định kỳ, siêu âm để đo những kích thước thể hiện sự phát triển của thai nhi. (Nếu không được thực hiện cách đây vào 2 – 3 tuần trước đó.)

ĐIỀU TRỊ

Khi bị sản giật, cách điều trị duy nhất là lấy thai nhi ra (nếu sản giật xuất hiện trong lúc sinh). Sản giật cũng có thể xuất hiện sau khi sinh (trong vòng 24 giờ ở giai đoạn hậu sản). Hiếm khi sản giật xuất hiện muộn khoảng 1 tuần sau sinh. Sản giật không thể điều trị được.

Dùng Magnesium sulfate (truyền tĩnh mạch) khi bị sản giật. Nó làm giảm nguy cơ co giật xuất hiện trở lại. Magnesium được truyền tiếp tục trong 24 – 48 giờ sau lần co giật cuối cùng. Bạn có thể được truyền magnesium tại phòng chăm sóc đặc biệt hoặc tại phòng bệnh hay phòng sinh. Trong khi truyền magnesium, bạn sẽ được theo dõi chặt chẽ, truyền dịch và đặt thông tiểu để đo lượng nước tiểu thải ra.

Đôi khi, nếu co giật tái diễn, cần phải bổ sung thêm barbiturate liều tấn công chẳng hạn như sodium amobarbital. Những thuốc khác bao gồm diazepam hay phenytoin cũng được sử dụng trong điều trị sản giật tuy nhiên chúng không có hiệu quả như magnesium sulfate.

Bạn cũng có thể được điều trị tăng huyết áp cùng lúc với sản giật. Thường những thuốc điều trị tăng huyết áp (dành cho phụ nữ bị sản giật) bao gồm hydralazine hoặc labetalol.

Khi tình trạng của mẹ đã ổn định sau một cơn co giật, bác sĩ sẽ chuẩn bị lấy em bé ra bằng nhiều cách, có thể mổ bắt con hoặc sử dụng thuốc giục sanh để có thể sanh bằng đường âm đạo. Nếu bạn đang trong cơn chuyển dạ, có thể chuyển dạ sẽ được tiếp tục và không có bằng chứng nào cho thấy thai nhi sẽ bị suy hoặc bị làm tổn thương bởi một cơn co giật khác.

Càng gần đến ngày dự sanh, cổ tử cung của bạn sẽ càng trở nên “chín mùi” (sẵn sàng cho việc sanh nở) và do đó việc sử dụng thuốc giục sanh sẽ thành công. Thỉnh thoảng những thuốc như oxytocin được dùng để giục sanh.

  • Thai nhi càng non tháng (tuần thứ 24 – 34) thì việc giục sanh càng ít có khả năng thành công (ngay cả khi vẫn có khả năng giục sinh được). Khi thai phụ bị sản giật và phải lấy thai nhi ra sớm, phương pháp thường dùng nhất là mổ bắt con.

  • Khi thai nhi có những dấu hiệu tổn thương như giảm nhịp tim thai, cần phải mổ bắt con ngay.

  • THUỐC

  • Bạn có thể sẽ cần được điều trị tăng huyết áp trong khi sanh và sau khi sanh. Ít khi cần phải dùng thuốc điều trị tăng huyết áp sau 6 tuần sau sanh (ngoại trừ trường hợp tăng huyết áp không liên quan đến thai kỳ).

  • Trong suốt quá trình sanh (và 24 – 48 giờ sau sanh) bạn sẽ được dùng magnesium sulfate để làm giảm nguy cơ co giật xuất hiện trở lại.

  • Những thuốc như oxytocin hoặc prostaglandin được sử dụng để giục sinh và/hoặc làm cho cổ tử cung của bạn “chín mùi”. Một ống thông tiểu được đặt vào cổ tử cung để làm tăng tốc độ giãn nở của cố tử cung.

NHỮNG BƯỚC TIẾP THEO

Theo dõi

Do không có một xét nghiệm nào dự báo và phòng ngừa sản giật nên cũng không có những xét nghiệm nào có thể dự báo chúng có thể tái phát sau sanh hay không. Không may là có một số ít phụ nữ bị tái phát tiền sản giật và sản giật. Trường hợp này thường thấy khi bị tiền sản giật và sản giật nặng và xuất hiện trong giai đoạn sớm của thai kỳ (cuối tam cá nguyệt thứ 2 hoặc đầu tam cá nguyệt thứ 3 – cuối 3 tháng giữa thai kỳ hoặc đầu 3 tháng cuối thai kỳ). Mặc dù, không có xét nghiệm chẩn đoán chính xác nhưng bạn nên được theo dõi chặt chẽ ở lần sinh kế tiếp.

Mặc dù kinh nghiệm về sử dụng thuốc ngừa thai ở những phụ nữ đã bị tiền sản giật hoặc sản giật có giới hạn, nhưng có bằng chứng cho rằng thuốc ngừa thai vẫn là phương pháp an tòan và hiệu quả.

Tiên lượng

Hầu hết phụ nữ bị tiền sản giật hay sản giật có tiên lượng tốt cho cuộc sanh nở. Một số phụ nữ vẫn tiếp tục tăng huyết áp và cần được theo dõi chặt chẽ sau sanh.

Hầu hết thai nhi đều khỏe mạnh. Trẻ sinh non thường ở bệnh viện lâu hơn. Thông thường thì trẻ sẽ được ở lại trong bệnh viện cho đến khi đủ tháng.

Có một số ít phụ nữ và thai nhi có nguy cơ bị ảnh hưởng đến tính mạng do những biến chứng của tiền sản giật và sản giật.

Theo emedicinehealth – Y học NET dịch

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Cám ơn bạn đã đọc bài viết. Bạn có ý kiến, tư liệu hoặc thông tin hay hơn hãy để lại vài lời để cùng chia sẻ với mọi người.

Xin lưu ý bạn, các nhận xét không có tinh thần góp ý xây dựng hay giúp đỡ nhau cùng tiến bộ sẽ bị xóa mà không cần báo trước.

Thêm vào đó, bạn không nhất thiết phải là thành viên của Google Blogger hay các mạng được liệt kê phía dưới mới được nhận xét, hãy sử dụng anonymous (Ẩn danh) nếu bạn không muốn để lại thông tin cá nhân của mình.

Nội dung gõ bằng tiếng Việt có dấu rõ ràng sẽ dễ chiếm thiện cảm hơn cả.
giangduongykhoa.net

Thống kê truy cập

Locations of visitors to this page

MedicineNet Daily News

Medscape Medical News Headlines

WebMD Health

National Institutes of Health (NIH) News Releases