Bài viết tương đối dài, mời bạn click vào "tiêu đề" hoặc "đọc thêm..." để xem toàn bộ bài viết
Ai bị mắc các bệnh tự miễn?
Đa số các bệnh tự miễn khá hiếm gặp. Tuy nhiên bệnh tự miễn là một nhóm bệnh có tác động đến hàng triệu người Mỹ. Hầu hết bệnh tự miễn thường tấn công phụ nữ hơn là nam giới, đặc biệt là phụ nữ trong độ tuổi làm việc và nuôi dạy con. Một số bệnh tự miễn thường hiện diện ở một thiểu số dân nhất định.
Chẳng hạn như bệnh lupus thường gặp ở những phụ nữ Mỹ gốc Phi và Tây Ban Nha hơn là phụ nữ da trắng gốc Âu. Tỉ lệ bệnh viêm khớp dạng thấp và xơ cứng bì ảnh hưởng trên cộng đồng dân Mỹ bản địa cao hơn là dân Mỹ nói chung. Hơn nữa, bệnh tự miễn tác động đến các khía cạnh xã hội, kinh tế, sức khỏe không chỉ trên gia đình mà còn trên những ông chủ, đồng nghiệp, bạn bè.
Nguyên nhân nào gây nên bệnh tự miễn?
Bệnh tự miễn có lây không? Không có bệnh tự miễn nào được chứng minh là có thể lây hoặc bị nhiễm cả. Các bệnh tự miễn không lan từ người này sang người kia như các bệnh nhiễm trùng. Các bệnh này không liên hệ gì đến bệnh AIDS (suy giảm miễn dịch mắc phải), cũng không phải là một dạng bệnh ung thư ác tính.
Bệnh tự miễn có di truyền không? Bộ gen mỗi người được thừa hưởng từ bố mẹ góp phần trong tính mẫn cảm mắc bệnh. Một số bệnh nhất định như bệnh vẩy nến hình thành ở giữa những thành viên trong cùng một gia đình. Điều này gợi ý rằng có một gen hoặc một tập hợp các gen đặc biệt khiến các thành viên trong gia đình cùng mắc bệnh vẩy nến. Hơn nữa, một số thành viên trong gia đình mắc bệnh tự miễn lại thừa hưởng và chia sẻ những gen bất thường đó dù họ có thể mắc các bệnh tự miễn khác. Chẳng hạn như một em họ thứ nhất bị bệnh lupus, một chị bạn dì khác có thể bị bệnh viêm bì cơ, và trong hai người mẹ của họ có một người bị bệnh viêm khớp dạng thấp.
Một số ví dụ về bệnh tự miễn (được liệt kê theo cơ quan đích chính)
Hệ thần kinh
- Xơ cứng rải rác
- Nhược cơ
- Các bệnh lý thần kinh tự miễn như Guillain-Barré
- Viêm màng bồ đào tự miễn
Hệ tiêu hóa
- Bệnh Crohn
- Viêm loét đại tràng
- Xơ gan ứ mật nguyên phát
Huyết học
- Thiếu máu tán huyết tự miễn
- Thiếu máu ác tính
Mạch máu
- Viêm động mạch thoáng qua
- Hội chứng kháng phospholipid
- Các bệnh lý viêm mạch máu như u hạt Wegener
Nội tiết
- Đái tháo đường type 1 hay đái tháo đường qua trung gian tự miễn
- Bệnh Grave
- Viêm giáp Hashimoto
- Viêm tinh hoàn và viêm buồng trứng tự miễn
- Bệnh lý tự miễn của tuyến thượng thận
Nhiều cơ quan, trong đó có cơ xương khớp*
- Viêm khớp dạng thấp
- Lupus ban đỏ hệ thống
- Xơ cứng bì
- Viêm đa cơ, viêm bì cơ
- Các bệnh khớp của cột sống như viêm cứng khớp cột sống
- Hội chứng Sjogren
Da
- Vẩy nến
- Viêm da dạng herpes
- Pemphigus thông thường
- Bạch biến
*Các bệnh này còn được gọi là bệnh lý mô liên kết (cơ, xương, cân, dây chằng…)
Sự hình thành bệnh tự miễn chịu tác động bởi các gen được thừa hưởng và cách đáp ứng của hệ tự miễn người ấy đối với các ảnh hưởng của môi trường và một số yếu tố gây khởi phát nhất định. | Còn yếu tố nào ảnh hưởng đến việc hình thành bệnh tự miễn? Một số bệnh tự miễn được biết sẽ khởi phát hoặc nặng hơn nhờ một số yếu tố khơi mào nhất định như bị nhiễm virus chẳng hạn. Đối với bệnh lupus, ánh nắng không chỉ là yếu tố khởi phát mà còn làm nặng hơn diễn tiến bệnh. Điều quan trọng là cần tỉnh táo nhận biết các tác nhân để ngừa hoặc hạn chế mức độ tổn thương của bệnh. Một số yếu tố tác động đến hệ tự miễn ít được biết đến như tuổi tác, stress mạn tính, nội tiết tố, thai kỳ. |
Hệ tự miễn hoạt động như thế nào?
Hệ tự miễn bảo vệ cơ thể khỏi các tác nhân tấn công vào cơ thể mà cơ thể xem là vật lạ. Đó là hệ thống vô cùng phức tạp. Hệ thống này điều hành cơ thể tùy thuộc vào mạng truyền thông linh hoạt và kỹ lưỡng giữa nhiều loại tế bào khác nhau của hệ miễn dịch. Trọng tâm của hệ thống là khả năng nhận diện và đáp ứng với các chất được gọi là kháng nguyên – là các tác nhân gây nhiễm khuẩn hay một phần của cơ thể (tự kháng nguyên).
Các tế bào và phân tử của hệ tự miễn bảo vệ chiếc mũi khòi sự tấn công của virus.
Tế bào T và B
Đa số các tế bào của hệ tự miễn là các bạch cầu gồm nhiều dạng khác nhau. Lymphocyte là một dạng bạch cầu gồm hai nhóm là tế bào T và tế bào B. Tế bào T là các tế bào chính của hệ tự miễn giúp tiêu diệt các tế bào xâm nhiễm và phối hợp toàn bộ tự miễn cùng phản ứng.Tế bào T có một phân tử trên bề mặt được gọi là thụ thể tế bào T. Thụ thể này tương tác với các phân tử khác gọi là MCH (phức hợp phù hợp mô chính). Các phân tử MCH nằm trên bề mặt của hầu hết các tế bào cơ thể và giúp tế bào T nhận diện các mảnh kháng nguyên. Tế bào B có chức năng tạo lập kháng thể. Kháng thể sẽ gắn vào kháng nguyên và đánh dấu kháng nguyên này để các tế bào của hệ miễn dịch tiêu diệt. Các loại bạch cầu khác là đại thực bào và bạch cầu đa nhân trung tính.
Đại thực bào và bạch cầu đa nhân trung tính
Đại thực bào và bạch cầu đa nhân trung tính lưu thông trong giòng máu và phát hiện ra các chất, vật lạ đối với cơ thể. Khi gặp dị nguyên như vi khuẩn, chúng bao lấy và tiêu diệt. Đại thực bào và bạch cầu đa nhân trung tính tiêu diệt kháng nguyên lạ nhờ tạo ra các phân tử độc như phân tử oxygen trung gian phản ứng. Nếu sản phẩm của các phân tử gây độc không được kiểm soát thì không chỉ các dị nguyên bị tiêu diệt mà các mô chung quanh đại thực bào và bạch cầu đa nhân trung tính cũng bị tiêu hủy.
Ví dụ như những người bị bệnh tự miễn có tên là u hạt Wegener, các đại thực bào và bạch cầu đa nhân trung tính tác động quá mức gây tổn thương các mạch máu tạo ra các phân tử gây độc và góp phần làm tổn hại mạch máu. Còn trong bệnh viêm khớp dạng thấp, các phân tử oxygen trung gian hoạt động và các phân tử gây độc khác được các bạch cầu đa nhân trung tính và đại thực bào hoạt động quá mức làm tổn tương khớp. Các phân tử gây độc góp phần tạo viêm biểu hiện bằng sưng, nóng và góp phần làm tổn thương khớp.
Đại thực bào Kháng thể Túi phân tử độc | Vi khuẩn | Vị khuẩn đang bị tiêu diệt |
Đại thực bào đến bao lấy vi khuẩn và giải phóng các phân tử gây độc (oxygen trung gian hoạt động) phá vỡ và tiêu diệt vi khuẩn.
Virus |
|
|
MCH | Tế bào thần kinh |
|
| Virus đang tái sản xuất |
|
| Kháng nguyên virus | Tế bào thần kinh bị nhiễm virus |
Tuy nhiên, để tế bào T đáp ứng với dị nguyên trên hệ MCH phải cần đến một phân tử khác nằm trên tế bào đại diện kháng nguyên gởi tín hiệu thứ phát đến tế bào T. Phân tử tương ứng trên bề mặt tế bào T nhận diện tín hiệu thứ phát này. Hai loại phân tử thứ hai của tế bào đại diện kháng nguyên và tế bào T này được gọi là các phân tử đồng kích thích. Có một số tập hợp phân tử đồng kích thích tham gia trong việc tương tác với tế bào đại diện kháng nguyên cùng với tế bào T. Khi các MCH, thụ thể của tế bào T, các phân tử đồng kích thích được tương tác với nhau thì tế bào T sẽ được kích hoạt để hoạt động theo một số cách.
Các cách hoạt động đó gồm có hoạt hóa, dung nạp hay chết tế bào T. Các bước nhỏ hơn sẽ tùy thuộc vào sự tác động và cách tương tác của các thành phần trong phân tử đồng kích thích. Do các tương tác là đáp ứng chính yếu của hệ miễn dịch nên các nhà nghiên cứu đặt nặng nghiên cứu để tìm ra các phương cách điều trị mới nhằm kiểm soát hoặc ngưng sự tấn công của hệ tự miễn trên chính các mô và cơ quan của cơ thể.
Kháng nguyên lạ trên hệ MCH
Cytokines và Chymokines
Sau khi có sự kết hợp (tương tác) giữa MHC và thụ thể tế bào T, hoặc có sự tương tác giữa các phân tử đồng kích thích, tế bào T đáp ứng bằng cách chế tiết ra các cytokines và chemokines. Cytokines là các protein bao quanh các tế bào hệ miễn dịch để được kích hoạt, trưởng thành hay sẽ chết đi. Chúng cũng ảnh hưởng đến các mô của hệ thống phi miễn dịch. Ví dụ như một số cytokines có thể cấu tạo nên thành lớp dày sừng của da và biểu hiện ở người xơ cứng bì.
Cytokines
Các tế bào T khác
Tế bào T hoạt hóa
Các tính hiệu cytokines
Chemokines là các phân tử cytokines nhỏ có thể thu hút các tế bào hệ miễn dịch. Quá sản cytokines gây ra viêm và xâm lấn cơ quan đích và biểu hiện ở các bệnh tự miễn. Ví dụ như quá sản cytokine ở khớp của người bị viêm khớp dạng thấp gây ra hậu quả là xâm chiếm không gian khớp bằng cách phá hủy các tế bào của hệ miễn dịch như đại thực bào, bạch cầu đa nhân trung tính, tế bào T.
This T cell (blue), one of the immune system’s principal means of defense, identifies the molecular signature of a dendritic cell (green) at a contact point called the immunological synapse. If the immunological synapse signals the presence of a foe, the T cell will attack.
Kháng nguyên
Tế bào B là loại tế bào chính yếu của tế bào hệ miễn dịch. Các tế bào B tham gia loại trừ các kháng nguyên lạ khỏi cơ thể. Đó là nhờ bề mặt phân tử gắn với kháng nguyên hoặc nhờ tạo ra các kháng thể đặc hỉệu để truy tìm và tiêu diệt các kháng nguyên lạ đặc hiệu. Tuy nhiên tế bào B chỉ có thể tạo ra kháng thể khi được nhận tín hiệu ra lệnh thích hợp từ tế bào T. Tế bào T đưa ra tín hiệu cho tế bào B bằng một loại cytokine, cytokine này đóng vai trò của phân tử thông tin. Khi nhận được tín hiệu, tế bào B sản xuất ra loại kháng thể đặc hiệu có thể tấn công đến loại kháng nguyên đặc biệt.
Tế bào T | Các phân tử thông tin | Tế bào B |
|
| Kháng thể |
Tự kháng thể
Trong một số bệnh tự miễn, tế bào B tạo ra các kháng thể sai lầm thay vì tấn công các kháng thể lạ thì các kháng thể này chống lại các mô trong cơ thể (tự kháng thể) . Thông thường các tự kháng thể gây rối loạn chức năng bình thường của mô hoặc bắt đầu hủy mô. Những người bệnh nhược cơ bị yếu các cơ vì các tự kháng thể tấn công vào phần dây thần kinh có nhiệm vụ kích hoạt các cơ vận động. Bệnh da liễu pemphigus vugaris thì có các tự kháng thể tấn công sai vào các tế bào da. Các tế bào kháng thể tích tụ lại ở da sẽ kích hoạt các phân tử và tế bào khác để phá hủy da, hậu quả tạo nên các bóng nước trên da.
Các phức hợp miễn dịch và hệ bổ thể.
Khi trong dòng máu có nhiều kháng thể bao lấy kháng nguyên, các phức hợp này tạo thành hệ thống rào cản rộng lớn gọi là phức hợp miễn dịch. Các phức hợp miễn dịch trở nên gây hại khi chúng tụ lại và khởi phát viêm trong các mạch máu nhỏ nuôi mô. Các phức hợp miễn dịch, tế bào tự miễn và phân tử viêm làm tắc nghẽn dòng máu và huỷ các mô vĩnh viển như mô thận. Hiện tượng này xảy ra ở những người bị lupus ban đỏ hệ thống.
Kháng thể
Kháng nguyên
Một phức hợp miễn dịch lớn.
Nếu các phức hợp miễn dịch tích tụ ở thận, chúng thúc đẩy các tế bào và phân tử gây viêm khác di chuyển đến thận
Phức hợp miễn dịch
Đơn vị lọc cầu thận
Một nhóm các phân tử được biệt hóa tạo thành hệ thống bổ thể giúp loại trừ các phức hợp miễn dịch. Các dạng phân tử khác nhau của hệ bổ thể trong dòng máu và trên bề mặt tế bào giúp các phức hợp miễn dịch dễ hòa tan. Các phân tử bổ thể làm giảm kích thức của các phức hợp miễn dịch hay thậm chí còn ngăn cản sự tạo thành phức hợp này, nhờ đó các phức hợp miễn dịch không tích tụ tại các vị trí sai trật (mô, tế bào của cơ thể). Hiếm gặp hơn là một số người nhận bộ gen bị khiếm khuyết từ bố mẹ nên tạo ra các bổ thể bất toàn. Do những người này không thể sản xuất được đúng số lượng hoặc chất lượng bổ thể nên hệ miễn dịch không thể ngăn các phức hợp miễn dịch lắng tụ ở các vị trí trong mô và cơ quan. Những người này bị các bệnh lý không phải do tự kháng thể trừ bệnh giống lupus ban đỏ.
Các yếu tố di truyền
Yếu tố di truyền chi phối hệ miễn dịch và cách đáp ứng của hệ này với các dị nguyên. Các gen quyết định sự đa dạng của các phân tử MCH trên các tế bào của người ấy. Các gen cũng ảnh hưởng đến sự sắp xếp tiềm ẩn của các thụ thể tế bào T đại diện trên tế bào T. Thực tế là một số gene MCH có liên quan đến các bệnh tự miễn. Tuy nhiên, các gen không phải là yếu tố duy nhất đóng vai trò quyết định sự nhạy cảm của một người đối với bệnh tự miễn. Ví dụ như một số người mang tế bào có phân tử MHC liên quan đến bệnh lại không mắc bệnh tự miễn.
Chẩn đoán bệnh tự miễn bằng cách nào?
Chẩn đoán bệnh tự miễn dựa trên các triệu chứng cơ năng, các phát hiện qua thăm khám lâm sàng và các kết quả xét nghiệm. Rất khó chẩn đoán bệnh tự miễn, đặc biệt là trong giai đoạn sớm của bệnh. Các triệu chứng cơ năng của nhiều bệnh tự miễn thường không điển hình, như mệt chẳng hạn. Các kết quả xét nghiệm có thể giúp ích chẩn đoán tuy nhiên chúng thường không đủ để chẩn đoán xác định. Nếu một người có các triệu chứng về xương như đau khớp và một cận lâm sàng dương tính nhưng không đặc hiệu sẽ được chẩn đoán bằng một bệnh mơ hồ trong giai đoạn sớm hay ‘chẩn đoán không phân biệt’ là bệnh tạo keo. Trong trường hợp đó, bác sĩ sẽ yêu cầu bệnh nhân tái khám thường xuyên để theo dõi. Giai đoạn sớm của bệnh là thời gian đáng nản lòng cho cả bác sĩ lẫn bệnh nhân. Một mặt khác thì các triệu chứng lại xảy ra rất ngắn, các xét nghiệm lập lờ lại không giúp kết luận được, trong khi thực tế lại đang bị mắc một bệnh lý nặng.
Trong một số trường hợp có thể chẩn đoán ra bệnh đặc hiệu. Một chẩn đoán sớm sau thời gian ngắn khởi phát triệu chứng sẽ cho phép điều trị tấn công sớm, và một số bệnh nhân sẽ đáp ứng điều trị hoàn toàn nếu các triệu chứng ấy được phát hiện trong giai đoạn sớm của bệnh.
Dù tự miễn gồm các bệnh mạn tính nhưng không thể tiên đoán được diễn tiến bệnh. Bác sĩ không thể tiên lượng những điều sẽ xảy đến cho bệnh nhân dựa vào cách phát bệnh. Bệnh nhân cần được bác sĩ theo dõi sát để các yếu tố môi trường hay các yếu tố khởi phát không làm bệnh nặng hơn, cũng cần thảo luận và tránh các yếu tố ấy, áp dụng các điều trị mới càng sớm càng tốt. Đến khám bệnh thường xuyên là điều quan trọng để giúp bác sĩ quản lý các biện pháp điều trị và theo dõi các tác dụng phụ của thuốc
Điều trị bệnh tự miễn như thế nào?
Thường các bệnh tự miễn là bệnh mạn tính cần theo dõi và chăm sóc cả đời, ngay cả khi bệnh nhân có vẻ còn khỏe. Hiện nay đã điều trị được một số bệnh tự miễn hoặc bệnh ‘biến mất’ nhờ điều trị. Tuy vậy nhiều người mắc bệnh có thể sống cuộc sống bình thường khi được chăm sóc sức khỏe phù hợp.
Trong phần lớn các trường hợp bác sĩ sẽ giúp bệnh nhân quản lý các hậu quả do hiện tụợng viêm mà bệnh tự miễn mang lại. Ví dụ, người mắc bệnh đái tháo đường type 1 sẽ được bác sĩ kê toa insulin nhằm kiểm soát nồng độ đường huyết để mức độ tăng đường huyết không gây tổn thương thận, mắt, mạch máu và thần kinh. Tuy nhiên mục tiêu các nghiên cứu khoa học hướng đến là phòng ngừa hiện tượng viêm không phá hủy các tế bào chế tiết ra insulin của tụy, là chất thiết yếu để kiểm soát đường huyết.
Mặt khác thuốc uống cũng làm chậm hay ngăn chặn sự phá huỷ thận, khớp của hệ miễn dịch trong một số bệnh lý như lupus hay viêm khớp dạng thấp. Thuốc hay các liệu pháp điều trị làm chậm lại hoặc ức chế đáp ứng viêm trong cố gắng chặn đứng hiện tượng viêm do các tấn công tự miễn được gọi là thuốc ức chế miễn dịch. Các thuốc này gồm có corticosteroids (prednisone), methotrexate, cyclophosphamide, azathioprine, và cyclosporin. Đáng buồn là các thuốc này cũng ức chế luôn khả năng chống nhiễm khuẩn của hệ miễn dịch và có khả năng gây ra các phản ứng phụ nghiêm trọng khác.
Ở một số người, chỉ cần một lượng thuốc ức chế miễn dịch giới hạn là có thể giúp lui bệnh. Lui bệnh là thuận ngữ chỉ giai đoạn ‘bệnh biến mất’ trong một thời gian đáng kể. Ngay cả khi đã bước vào giai đoạn lui bệnh thì bệnh nhân cũng cần phải uống thuốc liên tục. Khả năng tái phát bệnh khi ngưng thuốc cũng tương đương với các phản ứng phụ do sử dụng thuốc ức chế miễm dịch dài ngày mang lại.
Mục tiêu chăm sóc bệnh tự miễn hiện tại là tìm ra các biện pháp điều trị giúp lui bệnh mà ít tác dụng phụ hơn. Hầu như nghiên cứu tập trung khám phá các biện pháp điều trị nhắm đến các bước trong đáp ứng miễn dịch. Các hướng tiếp cận mới như điều trị kháng thể chống lại phân tử tế bào T đặc hiệu có thể sẽ ít gây ra phản ứng phụ dài hạn hơn là các biện pháp điều trị thường qui đang được sử dụng.
Nói cho cùng, các nhà khoa học đang cố gắng để thiết kế các biện pháp điều trị giúp phòng ngừa bệnh tự miễn. Cho đến thời điểu này các nhà khoa học đã bỏ ra một lượng lớn thời gian và nguồn lực để nghiên cứu về hệ miễn dịch và con đường của hiện tượng viêm.
Một số bệnh tự miễn điển hình
Viêm khớp dạng thấp
Ở người mắc bệnh viêm khớp dạng thấp hệ tự miễn có ưu thế tấn công lớp màng lót (bao hoạt dịch) của các khớp trong cơ thể. Bao hoạt dịch thường bị viêm theo hệ thống (thường đối xứng hai bên cơ thể) gây đau, sưng, cứng khớp. Các đặc điểm này giúp phân biệt bệnh viêm khớp dạng thấp với bệnh viêm xương khớp, là bệnh thường gặp hơn và gây viêm khớp thoái hóa (mặc và xé ra).
Một khớp viêm – bao hoạt dịch – bị các tế bào và phân tử hệ miễn dịch tấn công
Xương | Bao khớp |
Bao hoạt dịch bình thường | Các tế bào miển dịch gây viêm |
Sụn khớp bình thường | Bao hoạt dịch bị phân hủy và tăng sinh |
Sụn bị ăn mòn |
|
Các biện pháp điều trị hiện tại hướng đến giảm viêm khớp bằng thuốc kháng viêm và ức chế miễn dịch. Đôi khi hệ miễn dịch cũng tấn công phổi, mạch máu, mắt nên thình thoảng bệnh nhân cũng có thể có các triệu chứng của các bệnh tự miễn khác như hiện tượng viêm, ngứa, hóa vẩy Sjogren. Trong các trường hợp nặng cần phải sử dụng thuốc uống. Bệnh vẩy nến thường gặp trên 2 người trong số 100 người Mỹ. Bệnh vẩy nến thường có khuynh hướng gia đình.
Xơ cứng rải rác
Xơ cứng rải rác là bệnh lý trong đó hệ tự miễn tấn công các mô thần kinh của hệ thần kinh trung ương. Trong đa số trường hợp bệnh biểu hiện từng giai đoạn cho phép người bệnh có thể sinh hoạt gần như bình thường. Một thái cực khác của bệnh là các triệu chứng gặp thường xuyên gây nên bệnh lý tiến triển có khả năng gây mù, liệt và tử vong tiền trưởng thành. Một số thuốc hữu ích cho người bệnh xơ cứng rải rác thể gián đoạn như beta interferon.
Ở người trẻ, xơ cứng bì là bệnh lý thường gây tàn tật nhất của hệ thần kinh trung ương. Bệnh xơ cứng bì có tác động đến 1/700 người tại Hoa Kỳ. Các nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục tìm kiếm các yếu tố gây khởi phát bệnh.
Bệnh đái tháo đường type 1 hay đái tháo đường liên quan miễn dịch.
Tụy
Tế bào tiểu đảo
Đái tháo đường type làm phá hủy các tế bào sản xuất insulin của tụy. Insulin là chất thiết yếu giúp cơ thể giữ mức đường huyết trong giới hạn kiểm soát được. Đường huyết cao là triệu chứng và cũng là biến chứng của bệnh này. Tuy nhiên, hầu hết các tế bào sản xuất insulin bị phá hủy trước khi cáctriệu chứng của bệnh xuất hiện. Các triệu chứng của bệnh thường gặp là mệt, tiểu nhiều lần, khát nước nhiều, ngất đột ngột.
Đái tháo đường type 1 thường được chẩn đoán trước 30 tuổi, và có thể được chẩn đoán sớm trong tháng đầu sau sanh. Cùng với bệnh đái tháp đường type 2 (không được xem là bệnh tự miễn), đái tháo đường type 1 là nguyên nhân hàng đầu làm tổn thương thận, giảm thị trường, đoạn chi. Kiểm soát đường huyết chặt chẽ làm giảm tần số các biến cố trên. Đái tháo đường type 1 có khuynh hướng di truyền, chiêm tỉ lệ 1/800 người tại Hoa Kỳ. Trong số những người có liên hệ gần với bệnh đái tháo đường type 1 cần xác định những người có nguy cơ mắc bệnh cao. Hiện nay các nỗ lực đang ở mức đánh giá các chiến lược phòng ngừa mắc bệnh cho các thành viên trong gia đình có nguy cơ.
Các bệnh viêm ruột
Thuật ngữ này được sử dụng chung cho cả bệnh Cohn và bệnh viêm loét đại tràng là hai bệnh lý miễn dịch tấn công ruột. Bệnh nhân có thể bị tiêu chảy, buồn nôn, nôn, co thắt vùng bụng, đau khó kiểm soát. Cả chứng viêm ruột lẫn các tác dụng phụ của thuốc được dùng điều trị bệnh này đều khiến bệnh nhân mệt thêm. Ví dụ như điều trị bằng corticosteroid (prednisone) liều cao mỗi ngày để kiểm soát các triệu chứng của bệnh Cohn có thể khiến bệnh nhân bị nhiễm trùng, mỏng xương (hủy xương), gãy xương. Đối với bệnh nhân viêm loét đại tràng, phẫu thuật cắt đi đọan đại tràng bên dưới giúp chữa bệnh và giảm nguy cơ ung thư đại tràng. Hơn 1/500 người Mỹ mắc các dạng của bệnh lý viêm ruột.
Lupus ban đỏ hệ thống
Ánh nắng là một trong những yếu tố khởi phát và làm nặng thêm diễn tiến bệnh lupus
Figure 1: Symptoms of systemic lupus erythematosus
Bệnh nhân lupus ban đỏ hệ thống thường bị mệt, hồng ban, đau khớp. Trong các trường hợp nặng, hệ miễn dịch có thể tấn công và gây phá hủy một số cơ quan như thận, não, phổi. Ở một số người có thể kiểm soát các triệu chứng và các tổn thương bệnh nhờ các thuốc kháng viêm. Tuy nhiên, nếu bệnh nhân không được theo dõi sát thì các biến chứng do thuốc mang đến lại khá nghiêm trọng. Lupus ảnh hưởng 1/2000 người Mỹ và số đông trong đó 1/250 là phụ nữ Phi – Mỹ còn trẻ.
Vẻ mặt hình cánh bướm
Bệnh vẩy nến
Bệnh vẩy nến là một bệnh tử miễn ảnh hưởng đến da, thình thoảng gặp ở mắt, móng tay, chân và khớp. Bệnh vẩy nến tác động đến một phần da nhỏ hay chiến toàn boệ cơ thể bằng các vẩy đó chồng lên nhau được gọi là mảng. Các mảng có kích thước, hình dạng, độ nhả cảm khác nhau.Các mảng này có thể bị đau cũng như khó nhìn.
A young man affected by psoriasis
Nhiễm khuẩn, áp lực hay chấn thương vùng da có thể làm bệnh vẩy nến nặng thêm. Hầu hết các biện pháp điều trị hiện tại nhắm đến chăm sóc da tại chỗ để giảm viêm, ngứa và hóa vẩy. Trong các trường hợp nặng có thể cần phải dùng thuốc đường uống. Bệnh vẩy nến thường gặp, tại Hoa Kỳ cứ trên 100 người có hơn 2 người mắc phải. Bệnh vẩy nến thường có tính gia đình.
Xơ cứng bì
Loại bệnh tự miễn này là sừng hóa da và các mạch máu. Hầu hết bệnh nhân xơ cứng bì mắc chứng Raynaud là chứng co thắt mạch máy ngón tay, ngón chân. Các triệu chứng của hội chứng Raynaud gồm có tăng nhạy cảm của ngón tay và ngón chân với lạnh, thay đổi màu sắc da, đau và thường có loét đầu ngón tay, ngón chân.
Người bị bệnh xơ cứng bì có da và mạch máu dày hóa gây mất vận động, hơi thở ngắn, trong một số trường hợp hiến gặp có thể bị suy thận, tim, phổi. Ước lượng số người mắc bệnh xơ cứng bì thay đổi ở nhiều nhiều nghiên cứu khác nhau, nhưng dao động trong khoảng 1-4 người mắc trong mỗi 10.000 người Hoa Kỳ (hay tỉ số có thể lên đến 1/2500)
Bệnh tuyến giáp tự miễn
Viêm giáp Hashimoto và bệnh Grave là hậu quả của sự phá hủy hệ miễn dịch hay kích thích mô tuyến giáp. Các triệu chứng thiểu năng (hypo) hay cường năng (hyper) tuyến giáp thường không đặc trưng, tiến triển chậm chạp hay đột ngột gồm có mệt, lo lắng, chịu được lạnh hoặc nóng, yếu người, thay đổi số lượng hay độ mượt của tóc, tăng cân hoặc sụt cân. Chẩn đoán bệnh tuyến giáp thường dễ dàng nhờ các xét nghiệm phù hợp.
Mắt | Não |
Cơ | Tóc |
xương | Tuyến giáp |
| Tim |
Theo BSGĐ