Bệnh Đái tháo đường là một trong năm bệnh không lây nhiễm có tốc độ gia tăng nhanh nhất. Ước tính số người bị đái tháo đường trên thế giới đến năm 2020 sẽ lên tới 300 triệu người. Tỷ lệ đái tháo đường tăng nhanh không chỉ ở các nước phát triển, mà ở cả các nước đang phát triển đặc biệt là Châu Á, Châu Phi.
Để chẩn đoán bệnh đái tháo đường phải dựa vào tiêu chuẩn:
+ Đường huyết tương tĩnh mạch khi đói (sau nhịn ăn 8 giờ) nếu ≥ 126 mg/dl (7 mmol/L).
+ Hoặc đường huyết 2 giờ sau khi uống 75g glucose ≥ 200 mg/dl (11 mmol/L)
Người bệnh có thể có biểu hiện đầy đủ hoặc chỉ 1 vài triệu chứng như ăn nhiều, uống nhiều, khát nước, gầy sụt cân ỏ các mức độ khác nhau tuỳ theo thể bệnh. Ngoài ra có thể có triệu chứng của biến chứng do tăng đường huyết kéo dài.
Bệnh nhân đái tháo đường có thể bị các biến chứng cấp tính hoặc mạn tính làm suy giảm sức khoẻ, đe dọa tính mạng hoặc gây tàn phế nếu như bệnh không được chẩn đoán sớm, không được điều trị đúng và kịp thời... Nhưng nếu được chẩn đoán sớm, điều trị kịp thời, theo dõi liên tục, chăm sóc đúng cách... người bệnh vẫn khoẻ mạnh, làm việc và sinh hoạt như người bình thường.
Kết quả các nghiên cứu trên thế giới như nghiên cứu “Thử nghiệm kiểm soát đường huyết và biến chứng” (DCCT - Mỹ-1993), “Nghiên cứu tiền cứu về đái tháo đường” (UKPDS - Anh- 1998), nghiên cứu Kumamoto (Nhật)... đã chứng minh: “Nếu kiểm soát đường huyết chặt chẽ có thể ngăn chặn, làm giảm hoặc làm chậm sự xuất hiện các biến chứng của đái tháo đường”.
· Các biện pháp tự chăm sóc và theo dõi bệnh
Để đạt được mục tiêu kiểm soát chặt chẽ đường huyết, bên cạnh việc tuân thủ tốt chế độ điều trị do bác sĩ chỉ định, người bệnh còn cần phải biết tự chăm sóc và theo dõi bệnh.
Người bệnh nên thay đổi những thói quen không tốt trong ăn uống và sinh hoạt như ăn quá nhiều chất ngọt và mỡ động vật, uống nhiều rượu, hút thuốc lá, ít vận động...
Từng cá nhân cần có chế độ ăn, chế độ tập luyện thể lực phù hợp riêng dựa trên nhiều yếu tố như bệnh lý, diễn tiến bệnh, thói quen, văn hoá ẩm thực của từng vùng... Việc lựa chọn loại hình cũng như thời lượng luyện tập thể lực sao cho phù hợp cần tham khảo ý kiến bác sỹ.
· Tự theo dõi đường huyết
Tự theo dõi đường huyết là vấn đề quan trọng trong quá trình điều trị. Muốn đạt được mục tiêu kiểm soát chặt chẽ đường huyết nhằm ngăn chặn, làm giảm hoặc làm chậm sự xuất hiện của biến chứng của đái tháo đường thì cần theo dõi đường huyết thường xuyên để bác sỹ có thể điều chỉnh chế độ điều trị kịp thời khi đường huyết có sự thay đổi quá giới hạn cho phép.
Đối với người bình thường, đường huyết không phải luôn cố định ở một chỉ số, mà thường dao động trong khoảng bình thường tuỳ theo thời điểm trong ngày. Đối với người bị bệnh đái tháo đường thì đường huyết có thể dao động nhiều do khả năng tự điều chỉnh của cơ thể bị suy giảm. Đường huyết có thể bị tăng hoặc giảm quá giới hạn bình thường khi có những thay đổi nhiều về ăn uống, sinh hoạt, mức độ tuân thủ điều trị cũng như tình trạng bệnh tật... Vì vậy tương ứng với từng trạng thái sức khoẻ của mỗi người bệnh mà ta có lịch theo dõi đường huyết thay đổi.
Các thời điểm cần tự đo đường huyết bao gồm: khi đói (sau khi nhịn ăn 8 giờ), trước các bữa ăn, 2 giờ sau khi bắt đầu ăn và khi đi ngủ. Đối với người điều trị với insulin, cần kiểm tra đường huyết vào thời điểm 3 giờ sáng khi cần thiết.
· Số lần tự đo đường huyết trong một số trường hợp có thể như sau:
Đối với người đái tháo đường đang điều trị có đường huyết ổn định và tình trạng sức khoẻ không có vấn đề gì thì chỉ cần đường huyềt 2- 3 lần mỗi 1 hoặc 2 tuần.
Đối người bị đái tháo đường type 1, hoặc bị đái tháo đường type 2 đang điều trị nhưng đường huyết không ổn định hoặc đang bị một số bệnh thông thường như cảm cúm, sốt, tiêu chảy thì cần đo đường huyết nhiều lần trong ngày, phải đo ít nhất 3-4 lần/ ngày.
Những phụ nữ có thai và bị đái tháo đường phải đo đường huyết nhiều lần trong ngày (tối thiểu là 4 lần/ngày, thường là 6-7 lần/ngày) nhằm theo dõi diễn biến đường huyết ở các thời điểm không chỉ khi đói, mà cả 2giờ sau ăn, trước các bữa ăn và khi đi ngủ.
Ngoài ra trong những tình huống đặc biệt như khi có các triệu chứng hạ đường huyết, mệt sau khi vận động quá mức... cũng cần xét nghiệm đường huyết ngay.
Căn cứ vào ngưỡng đường huyết bình thường ở từng thời điểm ta có thể tự đánh giá được tình trạng đường huyết của mình.
Mục tiêu
Đường huyết đói (mg/dl) | 80 – 120 |
ĐH trước bữa ăn ( mg/dl) | 80 – 120 |
ĐH 2 giờ sau ăn (mg/dl) | <> |
ĐH khi đi ngủ (mg/dl) | 100-160 |
Đối với người chuẩn bị có thai
ĐH trước bữa ăn ( mg/dl) | 70 - 100 |
ĐH 2 giờ sau ăn (mg/dl) | <> |
ĐH khi đi ngủ (mg/dl) | 100-140 |
Đối với người có thai
ĐH khi đói | 60 - 95 |
ĐH trước bữa ăn và khi đi ngủ | 60 – 95 |
ĐH 2 giờ sau ăn | <> |
ĐH 1 giờ sau ăn | <> |
ĐH khi đi ngủ | 100- 140 |
Việc kiểm soát đường huyết có chặt chẽ hay không tuỳ thuộc một phần vào việc tự theo dõi đường huyết tại nhà của mỗi cá nhân. Vì chỉ có tự theo dõi thì mới có thể đo đường huyết được ở nhiều thời điểm trong ngày và trong thời gian dài.
Tất cả số liệu đường huyết theo dõi sẽ giúp bác sỹ thấy được diễn biến đường huyết ở từng thời điểm, căn cứ vào đó bác sỹ có thể điều chỉnh chế độ ăn, tập luyện, thuốc hợp lý nhất.
Tự theo dõi đường huyết trong những tình huống khẩn cấp như khi bị hạ đường huyết hay tăng đường huyết quá cao có thể giúp người bệnh nhận được sự trợ giúp, lời tư vấn kịp thời, chính xác và quí báu nhất đối với sinh mạng của bệnh nhân.
Tuy nhiên do chưa nhận biết hết lợi ích của việc tự theo dõi đường huyết tại nhà nên nhiều người không quan tâm tới việc này. Do đó có nhiều biến chứng đáng tiếc đã xảy ra trong khi chúng ta có thể ngăn ngừa được nếu phát hiện kịp thời sự bất thường của đường huyết.
Chỉ với một việc đơn giản là tự theo dõi đường huyết, người bệnh đã chủ động,tích cực góp phần vào điều trị, vào việc phòng ngừa biến chứng. Điều trị là một quá trình trong đó người thầy thuốc và người bệnh và người thân cùng hợp sức để chiến thắng lại bệnh tật.
BS. Nguyễn Thị Bích Đào